Thương Hiệu Số HTG.VN
×
BaThanh.Net ThuongHieuDoanhNghiep.VN HungThinhGroup.Net LuatManhDuc.com
CEO Ba Thành Án oan sai Đại biểu Quốc hội Thư cám ơn
Đăng tin Youtube: Công ty Ba Thành
×
Thuê lái xe Thuê xe

Từ khóa là từ hoặc cụm từ được người truy cập sử dụng để tìm kiếm thông tin tại HTG (htg.vn). Kết quả tìm kiếm được hiển thị theo kết quả của HTG phản hồi cho từ khóa được truy vấn. Quảng cáo bằng từ khóa là cách nhanh nhất, tiện lợi và hiệu quả nhất để đưa thông tin sản phẩm, dịch vụ, doanh nghiệp đến khách hàng, đối tác, bạn hàng,...

QUY ĐỊNH GIÁ TỪ KHÓA QUẢNG CÁO

1. Từ khóa có 1 từ: 30.000.000 đồng/từ-khóa/tháng.

Ví dụ: seo, ba, driver, thanh.

2. Từ khóa có 2 từ: 20.000.000 đồng/từ-khóa/tháng.

Ví dụ: ba thanh, ba thành, thuê xe.

3. Từ khóa có 3 từ: 10.000.000 đồng/từ-khóa/tháng.

Ví dụ: cty ba thanh, cty ba thành, thuê lái xe.

4. Từ khóa có 4 từ: 5.000.000 đồng/từ-khóa/tháng.

Ví dụ: công ty ba thành, cong ty ba thanh.

5. Từ khóa có 5 từ: 1.000.000 đồng/từ-khóa/tháng.

Ví dụ: tổng công ty ba thành, tong cong ty ba thanh.

6. Từ khóa trọn bộ: 50.000.000 đồng/bộ/tháng.

Từ khóa trọn bộ là bộ từ khóa không giới hạn số lượng từ khóa. Ví dụ từ khóa trọn bộ là: ba, ba thành, cty ba thành, công ty ba thành, tổng công ty ba thành, tập đoàn ba thành.

0912822628 là số điện thoại nhận thiết kế website

0912822628 là số điện thoại nhận làm quảng cáo website

TỔNG CÔNG TY HƯNG THỊNH 0942775858Tìm
TỔNG CÔNG TY HƯNG THỊNH 0942775858Liên hệ

Từ khóa liên quan:

Tính giá thuê xe
Khi khách hàng thuê xe nghĩa là khách hàng đã với . Cty Ba Thành không giải quyết tranh chấp với khách hàng và khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi rủi ro xảy ra do lỗi không đọc hoặc thực hiện sai các quy định này.
Thuê lái xe

Khi khách hàng thuê lái xe nghĩa là khách hàng đã với . Cty Ba Thành không giải quyết tranh chấp với khách hàng và khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi rủi ro xảy ra do lỗi không đọc hoặc thực hiện sai các quy định này.

Thuê lái xe

Tổng công ty Hưng Thịnh

Tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư bài bản

TKV và Tập đoàn Hưng Thịnh: Lương Sơn III - Những cam kết tin cậy

Khai thác, chế biến titan ở Bình Thuận: Nhìn từ quy hoạch của Chính phủ

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Cần đưa môi trường trở thành trụ cột cân bằng với hai trụ cột kinh tế và xã hội

Công ty TNHH Khoáng sản Zircon đỏ

Tranh mua tro xỉ nhà máy nhiệt điện

LÝ TƯỞNG SỐNG

Là sống vui, sống khỏe, sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---o0o---

Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 06 năm 2017

ĐƠN TỐ CÁO
Sai phạm của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm
trong quá trình giải quyết đơn và ra Thông báo số 41/TB-VB3-V4 ngày 05/06/2017

Kính gửi: Đại biểu Quốc hội Lê Minh Trí, Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

I. NGƯỜI TỐ CÁO

Người khiếu nại: Ông Nguyễn Đức Thành.
Địa chỉ liên lạc: 248/25 Bùi Thị Xuân, Phường 3, Quận Tân Bình.                                          
Địa chỉ website công bố hồ sơ tố cáo: ThuongHieuDoanhNghiep.Vn/smi

II. NGƯỜI BỊ TỐ CÁO

Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm - Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

III. NỘI DUNG TỐ CÁO

1. Đã là Phó Viện trưởng thì không thể bao biện là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật nên không phân biệt được “sơ cấp và trung cấp rõ ràng là hai cấp khác nhau; người hành nghề lái xe, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ đương nhiên là ba đối tượng lao động khác nhau” và không biết theo phương pháp loại trừ thì chỉ còn lại người hành nghề lái xe và sơ cấp.

Thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 chứng minh ông Thành đã hoàn thành khóa đào tạo sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2. Chứng chỉ này không công nhận ông Thành là công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ. Chứng chỉ sơ cấp thì nghề lái xe đương nhiên không phải là nghề có trình độ từ trung cấp. Vì vậy, ông Thành là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế thì đương nhiên không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003.

Nội dung “ông Thành phải được đào tạo tập trung” tại dòng 22 trang 2 Thông báo số 41/TB-VC3-V4 ngày 05/06/2017 của Quý viện (sau đây viết tắt là Thông báo số 41) đương nhiên bác bỏ nội dung “ông Thành phải qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, về nghiệp vụ” tại dòng 25 trang 2 Thông báo số 41. Ông Thành ngu lâu dốt bền nên không hiểu ẩn ý của luận điệu “công việc lái xe của ông Thành phải trải qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ thuật nên thời gian thử việc của ông Thành tối đa phải là 30 ngày” mặc dù luận điệu này cứ cố ý lặp đi lặp lại trong hai bản án và hai thông báo bất chấp quy định rất rõ ràng (chứng chỉ sơ cấp nghề) được đặt trang trọng trong dấu ngoặc đơn tại dòng 23 và dòng 24 trang 2 Thông báo số 41 nên luận điệu này tại dòng 25 và dòng 26 trang 2 Thông tư số 41 là ngụy biện, thủ đoạn gian lận và trái pháp luật thì đương nhiên bị bác bỏ.

Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty (viết tắt là Quyết định số 18) là chứng cứ chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận thời gian thử việc đương nhiên bác bỏ nội dung “nhưng ông không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào có giá trị pháp lý để chứng minh” tại đoạn cuối trang 1 Thông báo số 41.

Lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận việc làm thử. Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 03/09/2014 là tài liệu bãi bỏ các nội dung bị sửa đổi của Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 06/05/2013. Nội dung (tôi vào làm thử việc đã được sửa đổi là tôi vào làm việc) trình bày về một sự việc được trình bày trong nhiều văn bản thì nội dung (tôi vào làm việc) trong văn bản mới nhất đương nhiên bãi bỏ nội dung (tôi vào làm thử việc) trong các văn bản trước đó. Không có tài liệu, chứng cứ nào có giá trị pháp lý được ban hành trước thời điểm ngày 26/03/2013 chứng minh ông Thành và Công ty đã thỏa thuận về việc làm thử và không có biên bản đối chất giữa các bên để làm rõ sự thật về tình tiết này (từ thời điểm tiến hành hòa giải sơ thẩm ngày 19/06/2013 ông Thành đã yêu cầu đối chất nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng đến nay vẫn không thực hiện). Do đó, nội dung đoạn 1 trang 2 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

Vì các lẽ trên, không có cơ sở để xác định “đến ngày 26/3/2013 Công ty Sài Gòn Đồ gỗ ra Quyết cho ông Thành nghỉ việc là trong thời hạn 30 ngày theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, nội dung này tại dòng 32 và  dòng 33 trang 2 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

2. Đã là Phó Viện trưởng mà lại tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan.

“Việc ông Thành đã đổ nguyên liệu là xăng để sử dụng cho xe chạy dầu (mặc dù trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN) dẫn đến việc phải xúc, rửa bộ phận chứa nhiên liệu của xe và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ xe ô tô” không phải là lỗi nêu trong Quyết định số 18 và bản án của Tòa án (đây là tình tiết mới không có trong hai bản án, không được chứng minh, cũng không được tranh luận). Mặt khác, không có dòng chữ DIESEN trên nắp bình nhiên liệu và bộ phận chứa nhiên liệu phải xúc, rửa là sai sự thật. Ông Thành chỉ được biết trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEL sau khi đã xảy ra sự việc. Tài liệu 405 câu hỏi luật giao thông đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải mà ông Thành đã được học đương nhiên là đạt yêu cầu theo quy định tại Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2013. Các nội dung “việc đổ xăng cho xe chạy dầu làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ bền của động của động cơ xe ô tô” và “dòng chữ DIESEL trên nắp bình nhiên liệu là cách nhận biết và phân biệt xe chạy máy xăng và xe chạy máy dầu” không có trong tài liệu này. Không căn cứ tài liệu này để xem xét khách quan sự việc là áp dụng pháp luật máy móc, hình thức và xa rời thực tiễn. Hóa đơn bán hàng số 4663 ngày 06/03/2013 của Doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Lê Thành và Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh thời điểm xảy ra sự việc và thời điểm Công ty tùy tiện áp đặt lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” cho ông Thành là hai thời điểm khác nhau. Ông Thành và Công ty đã hoàn thành quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình tại thời điểm xảy ra sự việc vào ngày 06/03/2013 nên không có cơ sở để tùy tiện áp đặt lỗi trái với sự thật là ông Thành vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty sau khi xảy ra sự việc. Bản tự khai ngày 18/07/2013 của bà Châu là chứng cứ chứng minh Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival. Pháp luật không quy định “người lao động (ông Thành) thực hiện đúng yêu cầu (đi đổ xăng cho xe Captival) của người sử dụng lao động (Công ty) là lỗi”. Do đó, luận điệu hạ lưu, thủ đoạn nghiêm trọng hóa sự việc, bắt vạ, chủ quan, sai sự thật, vô căn cứ và trái pháp luật này tại đoạn 1 trang 3 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do ông Đoàn Văn Túy ký xác nhận tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 18/07/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại cho Công ty. Chứng cứ này đương nhiên bác bỏ luận điệu chủ quan, vô căn cứ và trái pháp luật rằng “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty” tại dòng 9 trang 3 Thông báo số 41. Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là lỗi của ông Thành”. Văn bản ngày 15/08/2013 có xác nhận của Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam về việc báo giá lốp xe của xe Captival ngày 26/03/2013 là 6.000.000 đồng, văn bản này là chứng cứ bổ sung chứng minh ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán đến người mua. Pháp luật không quy định “Việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua là lỗi”. Như vậy, không chứng được lỗi của ông Thành và việc truyền đạt đúng thông tin báo giá không phải là lỗi thì lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (5.900.000 đồng so với 3.520.000 đồng)” đương nhiên bị bác bỏ.

Giả sử có việc làm thử thì việc đánh giá đạt hay không đạt yêu cầu thử việc cũng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật: Thứ nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào “các thông tư về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ và giá lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” để cho rằng ông Thành không đạt yêu cầu thử việc là trái với căn cứ phải là “yêu cầu (việc làm thử) mà hai bên đã thỏa thuận” quy định tại Điều 32 của Bộ luật lao động. Thứ hai, xem lại nội dung 1 ở trên và quy định tại Khoản 3 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003 chứng minh Quyết định số 18 là trái luật. Thứ ba, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh không còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017. Thứ tư, Giấy phép lái xe số AV 543729 do Sở Giao thông Vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Thành ngày 04/07/2012 là chứng cứ chứng minh ông Thành đương nhiên đạt yêu cầu lái loại xe 7 chỗ của Công ty. Việc ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực chứng minh Công ty và Tòa án không có thẩm quyền quyết định ông Thành không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Như vậy, việc làm thử lái xe để đạt yêu cầu lái xe đương nhiên bị bác bỏ. Thứ năm, “độ bền của động cơ xe ô tô và giá mua lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” không phải là việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận, việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận không phải là lý do nêu trong Quyết định số 18, theo Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/4/2013 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh (có sự tham gia và ký tên của Công ty) thì Công ty đã thừa nhận không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. Như vậy, nội dung đoạn 2 trang 3 Thông báo số 41 cũng đương nhiên bị bác bỏ.

3. Đã là Phó Viện trưởng mà lại tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật

Căn cứ vào Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/4/2013 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh để cho rằng ông Thành thừa nhận “ông được Công ty Sài Gòn Đồ gỗ nhận làm thử việc với vị trí lái xe từ ngày 01/03/2013” nhưng không căn cứ vào chính Biên bản này để bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18 do “Công ty đã thừa nhận không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành” là không vô tư, không khách quan, không công bằng.

Không căn cứ Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07 tháng 11 năm 2012 để giải quyết đơn và ra Thông báo số 41 chứng minh Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đã thừa nhận “việc các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ Thông tư này là trái với Khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008”. Đây là tình tiết chứng minh Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đã biết rất rõ nhưng vẫn cố ý bao che cho sai phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nghiêm trọng hơn, không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh Bị đơn căn cứ vào các Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 và Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012. Vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm không phải là người đại diện của Bị đơn, cũng không phải là người bảo vệ quyền lợi của Bị đơn nhưng lại tùy tiện bào chữa trái pháp luật và tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của Bị đơn.

Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là “hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan” trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013. Do đó, quyết định y án sơ thẩm đương nhiên là hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong quá trình xét xử và ra Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014, của Kiểm sát viên Võ Chí Thiện đối với việc ra Thông báo số 810/TB-VC3-V3 ngày 13/09/2016, của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đối với việc ra Thông báo số 41/TB-CV3-V4 ngày 05/06/2017.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là ngụy biện và trái pháp luật

Từ những căn cứ nêu trên, nội dung đoạn 3 trang 3 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ. Bộ Giao thông Vận tải không có Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 16/09/2009 nên căn cứ Thông tư này để giải quyết đơn và ra Thông báo số 41 là không có cơ sở. Do đó, có thừa căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và có căn cứ tái thẩm (những người tiến hành tố tụng cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án và cố ý kết luận trái pháp luật) đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

IV. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

1.         Yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền (a) Bãi bỏ Thông báo số 41 do có những nội dung mâu thuẫn, sai sự thật và trái pháp luật như đã trình bày ở trên và (b) Điều tra làm rõ nguyên nhân ban hành Thông báo số 41 là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật, tùy tiện theo thói quen hay nhận tiền hối lộ chạy án.

2.         Tiếp tục xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

3.         Đình chỉ ngay công việc cho đến khi áp dụng hình thức xử lý kỷ luật khai trừ đảng, cách chức các chức danh Kiểm sát viên và Phó Viện trưởng đối với ông Võ Văn Thêm.

Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm trả lời đầy đủ và chi tiết các câu hỏi sau:

4.         Tại sao không giải quyết các yêu cầu giải quyết khiếu nại (từ 2-51) trong Đơn khiếu nại ngày 22/09/2016.

5.         Độ bền của động cơ ô tô được xác định như thế nào? Việc đổ xăng vào xe chạy dầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ ô tô như thế nào? Tài liệu, chứng cứ nào chứng minh? Thực tế chứng minh động cơ ô tô của xe Captival đang hoạt động thế nào?

6.         Việc đổ xăng vào xe chạy dầu xảy ra vào ngày nào? Do ai đổ? Có bao nhiêu người liên quan đến sự việc này? Tại thời điểm xảy ra sự việc, Công ty đã giải quyết sự việc này như thế nào? Tại sao ông Thành vẫn làm việc tại Công ty sau khi sự việc xảy ra vào ngày 06/03/2013? Công ty đơn phương áp đặt lỗi tại thời điểm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày 26/03/2013 trái với kết luận giải quyết sự việc trước đó là có căn cứ và hợp pháp không? Ông Thành có phải là người đổ xăng vào xe chạy dầu không? Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng hay dầu cho xe Captival (tài liệu, chứng cứ nào chứng minh)? Ai là người yêu cầu ông Thành lái xe Captival đi đổ xăng? Việc ông Thành thực hiện đúng yêu cầu của Công ty có phải là lỗi? Điều khoản cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật nào quy định “người lao động thực hiện đúng yêu cầu của người sử dụng lao động là lỗi”? Ai là người mở nắp bình nhiên liệu? Tài liệu 405 câu hỏi luật giao thông đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải có nội dung “dòng chữ diesel trên nắp bình nhiên liệu là cách nhận biết và phân biệt xe chạy máy xăng và xe chạy máy dầu” không và có đạt yêu cầu theo quy định tại Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 không? Ai là người chỉ cho ông Thành biết dòng chữ diesel trên nắp bình nhiên liệu, ở đâu và khi nào? Chỗ nào trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN? Công ty yêu cầu đổ xăng cho xe Captival, ông Thành là người lái xe đi thực hiện yêu cầu này của Công ty, người bán xăng là người trực tiếp mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng. Vậy tại sao không căn cứ lỗi “là Công ty nhưng lại yêu cầu đổ xăng vào xe chạy dầu” và lỗi “là người bán xăng nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” để bác bỏ lỗi “là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”? Người bán xăng mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng có phải là tình tiết công khai mà mọi người đều biết không? Bộ phận chứa nhiên liệu có thật sự phải xúc, rửa không? Bình nhiên liệu đã được xử lý như thế nào? Các luận điệu “việc đổ xăng cho xe chạy dầu là rất nguy hiểm (trong bản án) và làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ bền của động của động cơ xe ô tô” không phải là của Bị đơn trình bày thì có giá trị pháp lý không? Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành thì lỗi “là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” có đương nhiên bị bác bỏ không?

7.         Tài liệu, chứng cứ nào của Bị đơn chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 87 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007? Bị đơn không căn cứ các Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 và Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012 thì việc các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào các thông tư này để bào chữa cho Bị đơn có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tục không?

8.         Các nội dung mâu thuẫn, nhầm lẫn, sai sự thật, trái pháp luật có được làm rõ, sửa đổi, bãi bỏ, bị bác bỏ, bị tuyên bố vô hiệu không? Bộ Giao thông Vận tải có Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 16/09/2009 (chính xác là ngày nào) không? Có xe chay dầu không? Trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN không? Có đúng là ông Thành đã đổ nguyên liệu là xăng để sử dụng cho xe chay dầu không? Ông Thành có quyền bãi bỏ nội dung bị nhầm lẫn “tôi vào làm thử việc” và sửa đổi là “tôi vào làm việc” không? Tại sao các cơ quan tiến hành tố tụng đến nay vẫn không tiến hành cho ông Thành và Công ty đối chất để làm rõ tình tiết thử việc? Hành vi không cho ông Thành đối chất với bà Hồ Thị Bảo Châu tại buổi hòa giải sơ thẩm ngày 19/07/2013 của Thẩm phán Trần Đăng Tân có phải là hành vi cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án không? Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm có thật sự là đã xem xét lại toàn diện những tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án? Việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua có phải là lỗi không? Pháp luật có quy định “việc truyền đạt đúng thông tin là lỗi” không? Văn bản ngày 15/08/2013 có xác nhận của Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam về việc “báo giá lốp xe của xe Captival ngày 26/03/2013 là 6.000.000 đồng” có phải là chứng cứ bổ sung chứng minh ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán đến người mua (Tại sao không căn cứ vào Văn bản này và Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 để bác bỏ lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua”)? Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do ông Đoàn Văn Túy ký xác nhận tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 18/07/2013 có phải là chứng cứ chứng minh ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại cho Công ty đã đương nhiên bác bỏ ý kiến chủ quan, vô căn cứ và trái pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng rằng “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty”? Còn những tài liệu, chứng cứ nào mà ông Thành (a) vẫn chưa giao nộp được cho Tòa án và (b) chưa được biết để tranh luận?

9.         “Độ bền của động cơ xe ô tô và giá mua lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” có phải là nội dung việc làm thử mà ông Thành và Công ty đã thỏa thuận vào ngày 26/02/2013? Không có nội dung việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận thì Điều 32 Bộ luật lao động có phải là căn cứ pháp luật để Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành? Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh có còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017 không?

10.     Nội dung “thời gian thử việc không được quá 30 ngày đối với công việc đã được trải qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, về nghiệp vụ” và nội dung “thời gian thử việc không được quá 30 ngày đối với nghề lái xe, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ” có phải là quy định của khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP không? Bị đơn có căn cứ vào quy định này để chứng minh thời gian thử việc là 30 ngày không? Ông Thành là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế thì thuộc trường hợp nào của quy định này? Chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 mà ông Thành đã được cấp công nhận ông Thành là công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ? Nghề lái xe có phải là nghề có trình độ từ trung cấp? Luận điệu “công việc lái xe của ông Thành phải trải qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ thuật nên thời gian thử việc của ông Thành tối đa phải là 30 ngày” có phải là (a) luận điệu không rõ ràng, bảo thủ, rất thủ đoạn, ngụy biện nhằm làm nhiễu loạn thông tin gây hiểu nhầm, gian lận, dối trên, lừa dưới, qua mặt đồng nghiệp, bịp bợm người đọc cẩu thả, mị dân những người ngu lâu dốt bền hơn cả ông Thành và (b) luận điệu của Bị đơn không?

11.    Có phải Phó Viện trưởng biết rất rõ các hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của những người tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử và ra bản án nhưng vẫn cố ý nhắm mắt ký bừa vào Thông báo số 41 theo thói quen mà không thèm căn cứ vào các chứng cứ rõ ràng, tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành trong hồ sơ vụ án?

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!



Đã là Phó Viện trưởng thì không thể bao biện là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật nên không phân biệt được “sơ cấp và trung cấp rõ ràng là hai cấp khác nhau; người hành nghề lái xe, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ đương nhiên là ba đối tượng lao động khác nhau” và không biết theo phương pháp loại trừ thì chỉ còn lại người hành nghề lái xe và sơ cấp. Cần điều tra làm rõ nguyên nhân ban hành Thông báo số 41 là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật, tùy tiện theo thói quen hay nhận tiền hối lộ chạy án.

Đơn tố cáo: Sai phạm của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---o0o---

Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 06 năm 2017

ĐƠN TỐ CÁO
Sai phạm của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm
trong quá trình giải quyết đơn và ra Thông báo số 41/TB-VB3-V4 ngày 05/06/2017

Kính gửi: Đại biểu Quốc hội Lê Minh Trí, Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

I. NGƯỜI TỐ CÁO

Người khiếu nại: Ông Nguyễn Đức Thành.
Địa chỉ liên lạc: 248/25 Bùi Thị Xuân, Phường 3, Quận Tân Bình.                                          
Địa chỉ website công bố hồ sơ tố cáo: ThuongHieuDoanhNghiep.Vn/smi

II. NGƯỜI BỊ TỐ CÁO

Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm - Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

III. NỘI DUNG TỐ CÁO

1. Đã là Phó Viện trưởng thì không thể bao biện là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật nên không phân biệt được “sơ cấp và trung cấp rõ ràng là hai cấp khác nhau; người hành nghề lái xe, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ đương nhiên là ba đối tượng lao động khác nhau” và không biết theo phương pháp loại trừ thì chỉ còn lại người hành nghề lái xe và sơ cấp.

Thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 chứng minh ông Thành đã hoàn thành khóa đào tạo sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2. Chứng chỉ này không công nhận ông Thành là công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ. Chứng chỉ sơ cấp thì nghề lái xe đương nhiên không phải là nghề có trình độ từ trung cấp. Vì vậy, ông Thành là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế thì đương nhiên không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003.

Nội dung “ông Thành phải được đào tạo tập trung” tại dòng 22 trang 2 Thông báo số 41/TB-VC3-V4 ngày 05/06/2017 của Quý viện (sau đây viết tắt là Thông báo số 41) đương nhiên bác bỏ nội dung “ông Thành phải qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, về nghiệp vụ” tại dòng 25 trang 2 Thông báo số 41. Ông Thành ngu lâu dốt bền nên không hiểu ẩn ý của luận điệu “công việc lái xe của ông Thành phải trải qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ thuật nên thời gian thử việc của ông Thành tối đa phải là 30 ngày” mặc dù luận điệu này cứ cố ý lặp đi lặp lại trong hai bản án và hai thông báo bất chấp quy định rất rõ ràng (chứng chỉ sơ cấp nghề) được đặt trang trọng trong dấu ngoặc đơn tại dòng 23 và dòng 24 trang 2 Thông báo số 41 nên luận điệu này tại dòng 25 và dòng 26 trang 2 Thông tư số 41 là ngụy biện, thủ đoạn gian lận và trái pháp luật thì đương nhiên bị bác bỏ.

Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty (viết tắt là Quyết định số 18) là chứng cứ chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận thời gian thử việc đương nhiên bác bỏ nội dung “nhưng ông không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào có giá trị pháp lý để chứng minh” tại đoạn cuối trang 1 Thông báo số 41.

Lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này chứng minh ông Thành và Công ty không thỏa thuận việc làm thử. Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 03/09/2014 là tài liệu bãi bỏ các nội dung bị sửa đổi của Văn bản chứng minh và chứng cứ ngày 06/05/2013. Nội dung (tôi vào làm thử việc đã được sửa đổi là tôi vào làm việc) trình bày về một sự việc được trình bày trong nhiều văn bản thì nội dung (tôi vào làm việc) trong văn bản mới nhất đương nhiên bãi bỏ nội dung (tôi vào làm thử việc) trong các văn bản trước đó. Không có tài liệu, chứng cứ nào có giá trị pháp lý được ban hành trước thời điểm ngày 26/03/2013 chứng minh ông Thành và Công ty đã thỏa thuận về việc làm thử và không có biên bản đối chất giữa các bên để làm rõ sự thật về tình tiết này (từ thời điểm tiến hành hòa giải sơ thẩm ngày 19/06/2013 ông Thành đã yêu cầu đối chất nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng đến nay vẫn không thực hiện). Do đó, nội dung đoạn 1 trang 2 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

Vì các lẽ trên, không có cơ sở để xác định “đến ngày 26/3/2013 Công ty Sài Gòn Đồ gỗ ra Quyết cho ông Thành nghỉ việc là trong thời hạn 30 ngày theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, nội dung này tại dòng 32 và  dòng 33 trang 2 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

2. Đã là Phó Viện trưởng mà lại tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan.

“Việc ông Thành đã đổ nguyên liệu là xăng để sử dụng cho xe chạy dầu (mặc dù trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN) dẫn đến việc phải xúc, rửa bộ phận chứa nhiên liệu của xe và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ xe ô tô” không phải là lỗi nêu trong Quyết định số 18 và bản án của Tòa án (đây là tình tiết mới không có trong hai bản án, không được chứng minh, cũng không được tranh luận). Mặt khác, không có dòng chữ DIESEN trên nắp bình nhiên liệu và bộ phận chứa nhiên liệu phải xúc, rửa là sai sự thật. Ông Thành chỉ được biết trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEL sau khi đã xảy ra sự việc. Tài liệu 405 câu hỏi luật giao thông đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải mà ông Thành đã được học đương nhiên là đạt yêu cầu theo quy định tại Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2013. Các nội dung “việc đổ xăng cho xe chạy dầu làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ bền của động của động cơ xe ô tô” và “dòng chữ DIESEL trên nắp bình nhiên liệu là cách nhận biết và phân biệt xe chạy máy xăng và xe chạy máy dầu” không có trong tài liệu này. Không căn cứ tài liệu này để xem xét khách quan sự việc là áp dụng pháp luật máy móc, hình thức và xa rời thực tiễn. Hóa đơn bán hàng số 4663 ngày 06/03/2013 của Doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Lê Thành và Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là chứng cứ chứng minh thời điểm xảy ra sự việc và thời điểm Công ty tùy tiện áp đặt lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” cho ông Thành là hai thời điểm khác nhau. Ông Thành và Công ty đã hoàn thành quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình tại thời điểm xảy ra sự việc vào ngày 06/03/2013 nên không có cơ sở để tùy tiện áp đặt lỗi trái với sự thật là ông Thành vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty sau khi xảy ra sự việc. Bản tự khai ngày 18/07/2013 của bà Châu là chứng cứ chứng minh Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival. Pháp luật không quy định “người lao động (ông Thành) thực hiện đúng yêu cầu (đi đổ xăng cho xe Captival) của người sử dụng lao động (Công ty) là lỗi”. Do đó, luận điệu hạ lưu, thủ đoạn nghiêm trọng hóa sự việc, bắt vạ, chủ quan, sai sự thật, vô căn cứ và trái pháp luật này tại đoạn 1 trang 3 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ.

Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do ông Đoàn Văn Túy ký xác nhận tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 18/07/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại cho Công ty. Chứng cứ này đương nhiên bác bỏ luận điệu chủ quan, vô căn cứ và trái pháp luật rằng “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty” tại dòng 9 trang 3 Thông báo số 41. Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 là lỗi của ông Thành”. Văn bản ngày 15/08/2013 có xác nhận của Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam về việc báo giá lốp xe của xe Captival ngày 26/03/2013 là 6.000.000 đồng, văn bản này là chứng cứ bổ sung chứng minh ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán đến người mua. Pháp luật không quy định “Việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua là lỗi”. Như vậy, không chứng được lỗi của ông Thành và việc truyền đạt đúng thông tin báo giá không phải là lỗi thì lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (5.900.000 đồng so với 3.520.000 đồng)” đương nhiên bị bác bỏ.

Giả sử có việc làm thử thì việc đánh giá đạt hay không đạt yêu cầu thử việc cũng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật: Thứ nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào “các thông tư về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ và giá lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” để cho rằng ông Thành không đạt yêu cầu thử việc là trái với căn cứ phải là “yêu cầu (việc làm thử) mà hai bên đã thỏa thuận” quy định tại Điều 32 của Bộ luật lao động. Thứ hai, xem lại nội dung 1 ở trên và quy định tại Khoản 3 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 10/05/2003 chứng minh Quyết định số 18 là trái luật. Thứ ba, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh không còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017. Thứ tư, Giấy phép lái xe số AV 543729 do Sở Giao thông Vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Thành ngày 04/07/2012 là chứng cứ chứng minh ông Thành đương nhiên đạt yêu cầu lái loại xe 7 chỗ của Công ty. Việc ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực chứng minh Công ty và Tòa án không có thẩm quyền quyết định ông Thành không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Như vậy, việc làm thử lái xe để đạt yêu cầu lái xe đương nhiên bị bác bỏ. Thứ năm, “độ bền của động cơ xe ô tô và giá mua lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” không phải là việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận, việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận không phải là lý do nêu trong Quyết định số 18, theo Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/4/2013 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh (có sự tham gia và ký tên của Công ty) thì Công ty đã thừa nhận không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. Như vậy, nội dung đoạn 2 trang 3 Thông báo số 41 cũng đương nhiên bị bác bỏ.

3. Đã là Phó Viện trưởng mà lại tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật

Căn cứ vào Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/4/2013 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh để cho rằng ông Thành thừa nhận “ông được Công ty Sài Gòn Đồ gỗ nhận làm thử việc với vị trí lái xe từ ngày 01/03/2013” nhưng không căn cứ vào chính Biên bản này để bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18 do “Công ty đã thừa nhận không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành” là không vô tư, không khách quan, không công bằng.

Không căn cứ Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07 tháng 11 năm 2012 để giải quyết đơn và ra Thông báo số 41 chứng minh Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đã thừa nhận “việc các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ Thông tư này là trái với Khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008”. Đây là tình tiết chứng minh Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đã biết rất rõ nhưng vẫn cố ý bao che cho sai phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nghiêm trọng hơn, không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh Bị đơn căn cứ vào các Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 và Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012. Vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm không phải là người đại diện của Bị đơn, cũng không phải là người bảo vệ quyền lợi của Bị đơn nhưng lại tùy tiện bào chữa trái pháp luật và tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của Bị đơn.

Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là “hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan” trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013. Do đó, quyết định y án sơ thẩm đương nhiên là hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong quá trình xét xử và ra Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014, của Kiểm sát viên Võ Chí Thiện đối với việc ra Thông báo số 810/TB-VC3-V3 ngày 13/09/2016, của Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm đối với việc ra Thông báo số 41/TB-CV3-V4 ngày 05/06/2017.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là ngụy biện và trái pháp luật

Từ những căn cứ nêu trên, nội dung đoạn 3 trang 3 Thông báo số 41 đương nhiên bị bác bỏ. Bộ Giao thông Vận tải không có Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 16/09/2009 nên căn cứ Thông tư này để giải quyết đơn và ra Thông báo số 41 là không có cơ sở. Do đó, có thừa căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và có căn cứ tái thẩm (những người tiến hành tố tụng cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án và cố ý kết luận trái pháp luật) đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

IV. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

1.         Yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền (a) Bãi bỏ Thông báo số 41 do có những nội dung mâu thuẫn, sai sự thật và trái pháp luật như đã trình bày ở trên và (b) Điều tra làm rõ nguyên nhân ban hành Thông báo số 41 là do trình độ có hạn, năng lực yếu kém, không hiểu biết pháp luật, tùy tiện theo thói quen hay nhận tiền hối lộ chạy án.

2.         Tiếp tục xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

3.         Đình chỉ ngay công việc cho đến khi áp dụng hình thức xử lý kỷ luật khai trừ đảng, cách chức các chức danh Kiểm sát viên và Phó Viện trưởng đối với ông Võ Văn Thêm.

Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm trả lời đầy đủ và chi tiết các câu hỏi sau:

4.         Tại sao không giải quyết các yêu cầu giải quyết khiếu nại (từ 2-51) trong Đơn khiếu nại ngày 22/09/2016.

5.         Độ bền của động cơ ô tô được xác định như thế nào? Việc đổ xăng vào xe chạy dầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ bền của động cơ ô tô như thế nào? Tài liệu, chứng cứ nào chứng minh? Thực tế chứng minh động cơ ô tô của xe Captival đang hoạt động thế nào?

6.         Việc đổ xăng vào xe chạy dầu xảy ra vào ngày nào? Do ai đổ? Có bao nhiêu người liên quan đến sự việc này? Tại thời điểm xảy ra sự việc, Công ty đã giải quyết sự việc này như thế nào? Tại sao ông Thành vẫn làm việc tại Công ty sau khi sự việc xảy ra vào ngày 06/03/2013? Công ty đơn phương áp đặt lỗi tại thời điểm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày 26/03/2013 trái với kết luận giải quyết sự việc trước đó là có căn cứ và hợp pháp không? Ông Thành có phải là người đổ xăng vào xe chạy dầu không? Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng hay dầu cho xe Captival (tài liệu, chứng cứ nào chứng minh)? Ai là người yêu cầu ông Thành lái xe Captival đi đổ xăng? Việc ông Thành thực hiện đúng yêu cầu của Công ty có phải là lỗi? Điều khoản cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật nào quy định “người lao động thực hiện đúng yêu cầu của người sử dụng lao động là lỗi”? Ai là người mở nắp bình nhiên liệu? Tài liệu 405 câu hỏi luật giao thông đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải có nội dung “dòng chữ diesel trên nắp bình nhiên liệu là cách nhận biết và phân biệt xe chạy máy xăng và xe chạy máy dầu” không và có đạt yêu cầu theo quy định tại Điều 16 Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 không? Ai là người chỉ cho ông Thành biết dòng chữ diesel trên nắp bình nhiên liệu, ở đâu và khi nào? Chỗ nào trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN? Công ty yêu cầu đổ xăng cho xe Captival, ông Thành là người lái xe đi thực hiện yêu cầu này của Công ty, người bán xăng là người trực tiếp mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng. Vậy tại sao không căn cứ lỗi “là Công ty nhưng lại yêu cầu đổ xăng vào xe chạy dầu” và lỗi “là người bán xăng nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” để bác bỏ lỗi “là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”? Người bán xăng mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng có phải là tình tiết công khai mà mọi người đều biết không? Bộ phận chứa nhiên liệu có thật sự phải xúc, rửa không? Bình nhiên liệu đã được xử lý như thế nào? Các luận điệu “việc đổ xăng cho xe chạy dầu là rất nguy hiểm (trong bản án) và làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới độ bền của động của động cơ xe ô tô” không phải là của Bị đơn trình bày thì có giá trị pháp lý không? Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành thì lỗi “là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” có đương nhiên bị bác bỏ không?

7.         Tài liệu, chứng cứ nào của Bị đơn chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 87 của Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007? Bị đơn không căn cứ các Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 19/06/2009 và Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012 thì việc các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào các thông tư này để bào chữa cho Bị đơn có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tục không?

8.         Các nội dung mâu thuẫn, nhầm lẫn, sai sự thật, trái pháp luật có được làm rõ, sửa đổi, bãi bỏ, bị bác bỏ, bị tuyên bố vô hiệu không? Bộ Giao thông Vận tải có Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT ngày 16/09/2009 (chính xác là ngày nào) không? Có xe chay dầu không? Trên nắp bình nhiên liệu có dòng chữ DIESEN không? Có đúng là ông Thành đã đổ nguyên liệu là xăng để sử dụng cho xe chay dầu không? Ông Thành có quyền bãi bỏ nội dung bị nhầm lẫn “tôi vào làm thử việc” và sửa đổi là “tôi vào làm việc” không? Tại sao các cơ quan tiến hành tố tụng đến nay vẫn không tiến hành cho ông Thành và Công ty đối chất để làm rõ tình tiết thử việc? Hành vi không cho ông Thành đối chất với bà Hồ Thị Bảo Châu tại buổi hòa giải sơ thẩm ngày 19/07/2013 của Thẩm phán Trần Đăng Tân có phải là hành vi cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án không? Phó Viện trưởng Võ Văn Thêm có thật sự là đã xem xét lại toàn diện những tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án? Việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua có phải là lỗi không? Pháp luật có quy định “việc truyền đạt đúng thông tin là lỗi” không? Văn bản ngày 15/08/2013 có xác nhận của Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam về việc “báo giá lốp xe của xe Captival ngày 26/03/2013 là 6.000.000 đồng” có phải là chứng cứ bổ sung chứng minh ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá của người bán đến người mua (Tại sao không căn cứ vào Văn bản này và Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 để bác bỏ lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua”)? Văn bản ghi ngày 25/04/2013 do ông Đoàn Văn Túy ký xác nhận tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 18/07/2013 có phải là chứng cứ chứng minh ông Thành vẫn là người được giao đi mua lốp xe mà không gây thiệt hại cho Công ty đã đương nhiên bác bỏ ý kiến chủ quan, vô căn cứ và trái pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng rằng “nếu giao cho ông Thành mua lốp xe thì sẽ gây thiệt hại cho Công ty”? Còn những tài liệu, chứng cứ nào mà ông Thành (a) vẫn chưa giao nộp được cho Tòa án và (b) chưa được biết để tranh luận?

9.         “Độ bền của động cơ xe ô tô và giá mua lốp xe Dunlop mà ông chủ đã mua” có phải là nội dung việc làm thử mà ông Thành và Công ty đã thỏa thuận vào ngày 26/02/2013? Không có nội dung việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận thì Điều 32 Bộ luật lao động có phải là căn cứ pháp luật để Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành? Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh có còn căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động để ban hành Công văn số 311/LĐTBXH ngày 15/03/2017 không?

10.     Nội dung “thời gian thử việc không được quá 30 ngày đối với công việc đã được trải qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, về nghiệp vụ” và nội dung “thời gian thử việc không được quá 30 ngày đối với nghề lái xe, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ” có phải là quy định của khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP không? Bị đơn có căn cứ vào quy định này để chứng minh thời gian thử việc là 30 ngày không? Ông Thành là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế thì thuộc trường hợp nào của quy định này? Chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe ô tô hạng B2 mà ông Thành đã được cấp công nhận ông Thành là công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ? Nghề lái xe có phải là nghề có trình độ từ trung cấp? Luận điệu “công việc lái xe của ông Thành phải trải qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ thuật nên thời gian thử việc của ông Thành tối đa phải là 30 ngày” có phải là (a) luận điệu không rõ ràng, bảo thủ, rất thủ đoạn, ngụy biện nhằm làm nhiễu loạn thông tin gây hiểu nhầm, gian lận, dối trên, lừa dưới, qua mặt đồng nghiệp, bịp bợm người đọc cẩu thả, mị dân những người ngu lâu dốt bền hơn cả ông Thành và (b) luận điệu của Bị đơn không?

11.    Có phải Phó Viện trưởng biết rất rõ các hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của những người tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử và ra bản án nhưng vẫn cố ý nhắm mắt ký bừa vào Thông báo số 41 theo thói quen mà không thèm căn cứ vào các chứng cứ rõ ràng, tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành trong hồ sơ vụ án?

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!



[2124] [1141] [983] - SEO: Cty BaThanh.Net & HTG.VN